PDA

View Full Version : Trang thơ Hàn Mặc Tử


tandaiphat
06-07-2012, 10:23 AM
Hàn Mặc Tử (1912–1940) tên thật Nguyễn Trọng Trí, tên thánh là Pierre, sinh ở làng Lệ Mỹ, huyện Đồng Lộc, Tỉnh Đồng Hới (nay là Quảng Bình) trong một gia đình công giáo nghèo, cha mất sớm. Thuở nhỏ sống và học tiểu học ở Quy Nhơn, học trung học ở Huế, sau làn ở Sở Đạc Điền, bị thôi việc vì đau ốm. 1934-1935 theo Thúc Tề vào Sài Gòn làm báo (viết báo Công luận, phụ trách trang văn báo Sài Gòn), về sau lại trở ra Quy Nhơn. 1936 bị mắc bệnh phong, phải vào nhà thương Quy Nhơn và qua đời ở đó.

Hàn Mặc Tử làm thơ sớm, 14 tuổi đã làm thơ Đường luật đăng báo với bút danh Minh Duệ Thị. 1930 đoạt giải nhất trong cuộc thi thơ do một Thi xã tổ chức. Cùng Chế Lan Viên lập trường thơ Loạn, tuyên ngôn là bài Tựa cho tập "Điêu tàn" của Chế Lan Viên. Với các bút danh Phong Trần, Lệ Thanh và cuối cùng là Hàn Mặc Tử, đăng bài trên các báo Phụ nữ tân văn, Tiếng dân, Công luận, Tân thời, Đông Dương tạp chí, Người mới, Trong khuê phòng, Sài Gòn, v.v... Sinh thời Hàn Mặc Tử mới xuất bản được Gái quê (1936).

Tác phẩm: Lệ Thanh thi tập, Gái quê, Đau thương (còn gọi là Thơ điên, gồm các phần: Hương thơm, Mật đắng, Máu cuồng, Hồn điên), Xuân như ý, Thượng thanh khí, Cẩm châu duyên (gồm 2 vở kịch thơ: Duyên kỳ ngộ, Quần tiên hội (viết dở) và một số bài thơ lẻ), Chơi giữa mùa trăng (thơ, văn xuôi).

Thế giới thơ Hàn Mặc Tử khá phức tạp, trong khoảng hơn 10 năm Hàn Mặc Tử đi từ thơ luật Đường cổ điển qua lãng mạn đến ít nhiều tượng trưng, siêu thực. Tập "Gái quê" và một số bài trong "Đau thương" cảm xúc trong trẻo, lời thơ nhẹ nhàng, tứ thơ bình đị, tình ý nồng nàn rạo rực, nhưng càng về sau này thơ càng kinh dị, huyền bí và đượm màu sắc tôn giáo. Những đau đớn về thể xác về linh hồn để lại những dấu tích rõ rệt trong tác phẩm.

Dưới đây là một vài trong số rất nhiều tác phẩm của nhà thơ Hàn Mặc Tử.

Đây thôn vĩ Dạ

Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay...
Thuyền ai đậu bến sông Trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay ?

Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra...
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà ?



Uống trăng

Bóng hằng trong chén ngả nghiêng,
Lả lơi tắm mát làm duyên gợi tình.
Gió đùa mặt nước rung rinh,
Lòng ta khát tiếng chung tình từ lâu.
Uống đi cho đỡ khô hầu,
Uống đi cho bớt cái sầu miên man.
Có ai nuốt ánh trăng vàng,
Có ai nuốt cả bóng nàng tiên nga.



Bức thư Xanh

A! Huyền diệu! Huyền diệu! A! Huyền diệu
Anh ánh lên cho nguồn sáng trong xanh
Đây là Trăng? Thanh thuỷ đặc như tình
Đây là Nước? Bờ hồn không dậy sóng…
Là đàn phách của muôn dây đồng vọng
Vườn chiêm bao mê luyến cả thần kinh
Nào cuồng lên cho đến máu trong mình
Xao xuyến mãi, chảy tràn ra những ý…
Đây là ngọc, đầy hương hoa kỳ dị
Ứ bao lời tình tứ của đôi ta…
Không, không đâu! Máu với lệ chan hòa
Thành ra nghĩa biệt ly từ kiếp trước
Đây dòng chữ nửa hư nửa thực
Lời nao nao như hàng lệ rưng rưng.
Tình đã húp, sao ý vẫn còn sưng.
Sao giấy lại tháo mồ hôi ra thế?
Nàng hỡi Nàng! Như lòng ta khóc kể
Kêu rên nghe buồn chết cả đêm nay
Ta muốn nàng ngất lịm ở trong tay
Để ta xé bức thư ra vạn mảnh
Tung theo gió là Trăng hay hồn lạnh
Là nhạc say ngả ngớn giữa nguồn thương
Là tình ta còn gì nữa vấn vương
Tan thành bọt hư vô như khí hậu
Thanh Huy hỡi! Nàng chưa là châu báu
Cớ làm sao phước lộc chảy ra thơ
Duyên làm sao cho Trí đến dại khờ
Mắt mờ lệ ở sau hàng chữ gấm
Ta đã nuốt và hình như đã cắn
Cả lời thơ cho vãi máu Nàng ra
Điên rồi sao? Mê rồi? Hoảng rồi à?
Ờ được lắm, lên Trăng chơi một chuyến
Nhưng khoan đã, đang say kinh cầu nguyện
Cũng đang lần tràng chuỗi hột Từ Bi
A, Thanh Huy, A Thanh Huy! Thanh Huy
Ta cắp Nàng bay cao hơn tiếng nhạc.
Cho Nàng hớp đầy môi, hương khoái lạc
Cho hồn nàng dính chặt với hồn ta
Tình đôi ta muôn kiếp gỡ không ra.