PDA

View Full Version : Về Thôi Em


tritinh
06-07-2012, 11:11 AM
VỀ THÔI EM

Em ra không, mai anh về đất Quảng.
Trời miền Nam giáp tết quá nôn nao.
Thèm chi mô một chén rượu hồng đào,
Dẫu chưa uống – chỉ say từ câu hát.
Em ở biển ngọn khoai trườn nổng cát,
Anh trên nguồn đá chẹn củ mì eo
Cả đời cha cày bới lượm đói nghèo
Vẫn khen đất mình chưa mưa đà thấm.
Biển dưới em con cá chuồn ngon lắm,
Trên nguồn anh trái mít phải lòng theo,
Lận đận một đời quảy gánh gieo neo,
Nuôi con lớn mẹ lên nguồn xuống biển
Đất dễ thấm – dễ mềm lòng quyến luyến,
Người đi xa nhớ muối mặn gừng cay
Đờn Miếu Bông ai chọn phím so dây,
Để ta khóc theo chuyến tàu hối hả ?
Về thôi em, bận lòng chi xứ lạ.
Sông Thu ta dẫu bên lở bên bồi,
Dẫu mỗi năm mỗi nước lụt cuốn trôi,
Cây măng sậy vẫn bám bờ xanh mãi.
Chắc vườn xưa chừ ửng vàng hoa cải,
Cha mẹ trông ta – mòn Hòn Kẽm Đá Dừng !
Cuối năm 1997
(Dương Quang Anh, Tuyển tập thơ Quảng Nam Chưa mưa đà thấm, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 1998)

Dương Quang Anh là người con của đất Quảng Nam. Ông sinh năm 1946, quê ở Bình Lâm, Hiệp Đức (Thăng Bình cũ). Ông có thơ đăng trên một số báo, tạp chí… Bài thơ Về thôi em được viết cuối năm 1997 và được chọn in trong tuyển tập thơ Chưa mưa đà thấm.- NXB Hội Nhà văn. Dương Quang Anh sáng tác không nhiều, tuy vậy, bài thơ Về thôi em của ông là một bài thơ để lại ấn tượng khá sâu đậm trong lòng bạn đọc, nhất là những người con đất Quảng xa quê.

Bài thơ mở ra bằng câu hỏi đi kèm với một thông báo:“Em ra không, mai anh về đất Quảng”. Thông báo được đưa ra ngay trong không khí miền Nam những ngày giáp tết, người Quảng xa xứ đang quay quắt nhớ cố hương và đau đáu một nỗi niềm quê kiểng. Chính cảm thức thời gian – không gian đó đã làm cho khổ thơ mở đầu nhuốm màu tâm trạng và dậy lên một nỗi khát thèm: “Trời miền Nam giáp tết quá nôn nao/ Thèm chi mô một chén rượu hồng đào/ Dẫu chưa uống – chỉ say từ câu hát”. Nhắc đến quê nhà Quảng Nam là gợi nhớ về câu ca dao xưa: “Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm/ Rượu hồng đào chưa uống đà say”. Câu ca ấy như thấm vào trong máu thịt của người dân xứ Quảng, giờ chạm đến lại òa về làm say đắm lòng người.
Và cứ thế lời thơ tuôn chảy tự nhiên theo mạch nguồn cảm xúc, gợi thương, gợi nhớ về một miền quê trên dải đất miền Trung nắng đổ, mưa tràn. Người xa quê như thấy mình được sống lại với từng cảnh vật thân thiết của quê nhà:
Em ở biển ngọn khoai trườn nổng cát,
Anh trên nguồn đá chẹn củ mỳ eo
Biển dưới em con cá chuồn ngon lắm,
Trên nguồn anh trái mít phải lòng theo
Ngọn khoai, củ mỳ, con cá chuồn, trái mít, chưa hẳn đã là đặc sản của vùng đất Quảng Nam. Nhưng đây lại là những sản vật gắn với mảnh đất “chưa mưa đà thấm”, gắn với tâm thức của con người xứ Quảng. Nó không chỉ là hình ảnh biểu trưng của mảnh đất quê nhà mà còn là biểu trưng của cuộc sống người dân Quảng Nam với bao nỗi nhọc nhằn, gian nan, vất vả. Hình ảnh “ngọn khoai trườn nổng cát” hay “đá chẹn củ mỳ eo” gợi về những miền quê đất Quảng: dưới biển, cát trắng trải dài – chỉ cát và cát – ngọn khoai phải “trườn” mình trên cát nóng mà sống; trên nguồn, núi đồi cằn cỗi – chỉ đá và đá – củ mỳ bị đá “chẹn” đến dị dạng. Còn hình ảnh “con cá chuồn” dưới biển hay “trái mít” trên nguồn lại gắn với hoạt động trao đổi, buôn bán của người dân hai miền. Câu thơ làm ta nhớ về câu ca “Ai về nhắn với bạn nguồn/ Mít non gửi xuống cá chuồn gửi lên”. Ở đây, người viết như muốn gợi nhớ về một miền quê Quảng Nam với cả không khí sinh hoạt và lao động. Nơi ấy là quê nhà của anh và em, nặng nghĩa, nghĩa tình!
Và hơn thế nữa, nơi ấy còn có hình bóng của cha ta “cả đời cha cày bới lượm đói nghèo/ vẫn khen đất mình chưa mưa đã thấm”, của mẹ ta“lận đận một đời quảy gánh gieo neo/ Nuôi con lớn mẹ lên nguồn xuống biển”. Bằng cách nói hình tượng, với những hình ảnh biểu trưng, người thơ đã cho ta một hình dung về cuộc đời của mẹ cha ta. Nhớ và thương biết mấy cha mẹ ngày xưa đã vất vả gian nan, vật lộn với cái đói, cái nghèo của đất quê ! Không chỉ thương mà còn tự hào bởi người dân quê ta giàu tình cảm, yêu quê hương, cần cù, chịu thương, chịu khó. Lời thơ ẩn chứa một nỗi niềm xa xót, day dứt, quặn thắt làm nát lòng người xa xứ. Nhớ lắm và thương lắm!
Trong cảm thức ly hương, chủ thể trữ tình dường như đã không kìm nén được cảm xúc đã phải dụng đến lý lẽ để giãi bày cho sự “mềm lòng” của mình: “Đất dễ thấm – dễ mềm lòng quyến luyến/ người đi xa nhớ muối mặn gừng cay”. Ta có cảm giác, lúc này, tình cảm giống như một cái gì đó mong manh, dễ vỡ. Chỉ khẽ chạm cũng đủ òa vỡ. Và sự thật “giọt nước đã tràn ly”, tiếng lòng ấy đã rung lên cùng tiếng đàn dội về trong cõi nhớ và theo chuyến tàu hối hả rời ga để rồi bật lên thành tiếng khóc:
Đờn Miếu Bông ai chọn phím so dây,
Để ta khóc theo chuyến tàu hối hả ?
Trong ngậm ngùi luyến nhớ, hình ảnh quê nhà cứ dồn dập hiện về trong tâm trí người xa xứ làm nên những đợt sóng tình cảm xô đẩy, va đập, cuộn xoáy và trào dâng thành tiếng gọi về tha thiết: “Về thôi em, bận lòng chi xứ lạ”. Vâng! Như một lời hối thúc quay về: về đi, về với quê hương thân thiết dấu yêu, về với mẹ cha ta một đời khốn khó, dẫu con sông quê “bên lở bên bồi”, dẫu quê ta “Mỗi năm mỗi nước lụt cuốn trôi”, dẫu quê ta còn vô vàn khó khăn, vất vả! Không chỉ thấu hiểu và sẻ chia, người thơ còn như muốn nói đến nghĩa tình sau trước, sắt son chung thủy của người dân Quảng Nam trong việc bám đất giữa làng khi ông đưa ra một hình ảnh có tính ẩn dụ “Cây măng sậy vẫn bám bờ xanh mãi”. Làm sao người Quảng xa quê không thấy xót, thấy đau và không khỏi nghĩ về quê nhà khi đọc được những câu thơ như thế!
Trong sự thôi thúc quay về, người thơ như mường tượng thấy bóng dáng quê nhà trong những ngày giáp tết và cảm nhận được nỗi mong ngóng cháy lòng của cha mẹ nơi phương trời xưa cũ. Bài thơ khép lại bằng hình ảnh thơ thật đẹp, thật ấn tượng làm nao lòng người đọc, dẫu đó chỉ là hình ảnh được tạo nên bởi một dự cảm ngậm ngùi:
Chắc vườn xưa chừ ửng vàng hoa cải,
Cha mẹ trông ta – mòn Hòn Kẽm Đá Dừng !
Người thơ đã vận dụng một cách sáng tạo linh hồn câu ca dao “Ngó lên Hòn Kẽm Đá Dừng/ Thương cha nhớ mẹ quá chừng bạn ơi!” để cụ thể hóa không gian vời vợi, thời gian đằng đẵng, mòn mỏi ngóng trông của cha mẹ bằng hình ảnh “mòn Hòn Kẽm Đá Dừng. Câu thơ ám ảnh lạ thường!
Dương Quang Anh đã thật tinh tế trong việc chọn lựa và đưa vào bài thơ những hình ảnh lẫn ý tình của những câu ca dao thân thuộc tự bao đời của người dân xứ Quảng. Có thể nói, chất dân gian, hơi thở của cuộc sống, cái hồn đất Quảng như thấm sâu trong từng câu, từng chữ của bài thơ.
Về thôi em – Một bài thơ thấm đẫm tình quê của người Quảng Nam xa xứ.

Bình: Nguyễn Mậu Hùng Kiệt

kaiser
06-07-2012, 11:11 AM
sao bài này buồn vậy pl ơiiiiiiiiiiiii
v đọc mà mún khóc lun :khoc-hoai:

tritinh
06-07-2012, 11:11 AM
TIẾNG GỌI THIÊNG LIÊNG
TRONG NHỮNG NGÀY GIÁP TẾT

VỀ THÔI EM

Em ra không, mai anh về đất Quảng
Trời miền Nam giáp Tết quá nôn nao
Thèm chi mô một chén rượu hồng đào
Dẫu chưa uống - chỉ say từ câu hát

Em ở biển ngọn khoai trườn nổng cát
Anh trên nguồn đá chẹn củ mì leo
Cả đời cha cày bới lượm đói nghèo
Vẫn khen đất mình chưa mưa đà thấm

Biển dưới em con cá chuồn ngon lắm
Trên nguồn anh trái mít phải lòng theo
Lận đận một đời quẳng gánh gieo neo
Nuôi con lớn mẹ lên nguồn xuống biển

Đất dễ thấm dễ mềm lòng quyến luyến
Người đi xa nhớ muối mặn gừng cay
Đờn Bồng Miêu ai chọn phím so dây
Để ta khóc theo chuyến tàu hối hả ?

Về thôi em, bận lòng chi xứ lạ
Sông Thu ta vẫn bên lở bên bồi
Dẫu mỗi năm mỗi nước lụt cuốn trôi
Cây măng sậy vẫn bám bờ xanh mãi

Chắc vườn xưa giờ ửng vàng hoa cải
Cha mẹ trông ta – mòn Hòn Kẽm Đá Dừng

(Cuối năm 1997)
(Dương Quang Anh, tuyển tập thơ Quảng Nam “chưa mưa đà thấm”, NXB Hội nhà văn, 1998)




Đọc bài thơ “Về thôi em” của Dương Quang Anh trong những ngày giáp Tết này, trong lòng mỗi người dân Quảng Nam nói riêng và người dân xa xứ nói chung không khỏi bùi ngùi xúc động. Sau một năm bôn ba trên đất khách quê người, những ngày cuối năm, lòng mỗi khách tha hương chắc ai cũng mang một niềm khắc khoải chờ mong chuyến trở về cho kịp đón Tết bên gia đình, trên mảnh đất chôn nhau cắt rốn. Tác giả Dương Quang Anh đã nói hộ điều ấy bằng một giọng thơ đầy cảm xúc và mang đậm những nét văn hoá đặc trưng của Quảng Nam
Câu đầu là một câu hỏi bộc trực nhưng chân tình, mang bản chất của người con trai Quảng :

Em ra không, mai anh về đất Quảng

Trong cuộc trở về với quê hương, người con trai muốn rủ theo một người bạn gái cùng quê để có thêm sự ấm áp, thân thương trên chuyến về có thể nói là xa. Nhưng đâu chỉ thế, đó còn là một nét văn hoá đã tồn tại trong tâm thức người dân Quảng. Làm gì cũng rủ nhau cả. Từ những ngày quang gánh rủ nhau vào Đàng Trong mở cõi cho đến những hội hè đình đám, những mùa vụ lúa má, khoai rau cũng đều cất tiếng gọi nhau cùng đi, cùng làm. Bởi vậy, người dân Quảng Nam vốn đã có tinh thần đoàn kết, yêu thương nhau từ trong huyết Quảng. Và, cũng có thể, lời rủ về của anh con trai cũng còn một ý nghĩa khác sâu xa hơn. Phải chăng, anh muốn rủ người con gái “về cùng” là có dụng ý muốn kết đôi, muốn làm bạn. Bởi Sài Gòn biết bao người con gái Quảng, sao anh không rủ mà rủ em “về” ?
Đi sâu vào bài thơ, ta giật mình nhận ra những điều vốn bình dị nhưng đã trở thành hồn thiêng của núi sông đất Quảng Nam dày nặng ân tình. Trước hết, đó là vốn văn hoá đậm đà chất Quảng được tác giả tỉa gọt từ những câu ca dao dân ca, từ những truyền thuyết mà dân Quảng Nam ai ai cũng thuộc làu. Đó là chén rượu hồng đào đầy chất tượng trưng, là thứ đất cát “chưa mưa đà thấm” trong câu ca :

“ Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm
Rượu hồng đào chưa nhấm đà say
Thương nhau chưa đặng mấy ngày
Đã mang câu ơn trượng nghĩa dày bạn ơi”

Đó là hình ảnh trái mít non và con cá chuồn sóng đôi nhau như tấm lòng son sắc, yêu thương, tương trợ của nhân dân miền xuôi và miền ngược Quảng Nam trong câu ca:

“Ai về nhắn với nậu nguồn
Mít non gửi xuống, cá chuồn gửi lên”

Và đó còn là cái đạo nghĩa mặn mòi, lâu bền của người dân Quảng Nam bao đời qua câu nói cửa miệng “Gừng cay muối mặn”
Rồi đó là hình ảnh Hòn Kẽm Đá Dừng thân thương mà ray rứt lòng người qua câu ca:

“ Ngó lên Hòn Kẽm Đá Dừng
Thương cha nhớ mẹ quá chừng bậu ơi”

Chừng ấy thôi, đã thấy được sự tinh tế của tác giả Dương Quang Anh trong việc gợi lại những nét văn hoá đặc trưng của Quảng Nam trong lòng người đọc. Là người Quảng Nam thôi, đọc lên đã thấy rưng rưng xúc động, huống gì là những người con xa quê đang ngóng đợi ngày về. Với họ, mỗi câu thơ của Dương Quang Anh là thêm một chút nhớ đến quay quắt, thêm những kỉ niệm ùa về, thêm sự chờ mong đến bỏng rát
Không dừng lại ở đó, bài thơ “Về thôi em” còn làm cho những đứa con tha hương cồn cào hơn với nỗi nhớ cố quận,với những hình ảnh thân thuộc, quá gian nan nhưng cũng chất chứa bao thương mến nơi quê nhà. Từ hình ảnh “ ngọn khoai trườn nổng cát”, “đá chẹt củ mì leo” đến những đấng sinh thành gầy guộc tháng ngày “cày bới lượm đói nghèo” và “lên nguồn xuống biển” để có hạt gạo, củ khoai nuôi mình khôn lớn. Đọc lên, làm sao không khỏi xúc động, không khỏi chạnh lòng cho được
Với những từ ngữ hình ảnh dung dị gần gũi nhưng hàm chứa một bề sâu văn hoá Quảng Nam rất lớn, “Về thôi em” là tiếng gọi thiết tha, chân tình và cũng không kém phần thiêng liêng của hồn đất, tình người hướng về những đứa con xa quê trong những ngày giáp Tết. Đó là ngọn lửa soi đường để những người Quảng Nam đang lạc giữa nơi xa, lạc giữa phù hoa cõi người, giữa cơm áo công danh tìm đường về với nơi chôn nhau cắt rốn mặn mà tình nghĩa, đầy yêu thương và nhân ái
Câu cuối bài thơ là một cái khép đầy ám ảnh

“ Cha mẹ trông ta – mòn Hòn Kẽm Đá Dừng”
Ở nơi quê nhà, đấng sinh thành luôn dang vòng tay gầy guộc nhưng đầy nhân ái, bao dung để sẵn sàng đón những đứa con xa trở về sum họp. Hình dáng họ, tình thương bao la của họ sánh ngang với núi sông hùng vĩ quê nhà

Về thôi em !
Về thôi anh !
Về thôi con!