THÁNG GIÊNG, VỀ QUẢNG NAM ĂN RAU MỨT
(Nguyễn Thành Giang)
Tháng Giêng, về thôn 1, Tam Hải Núi Thành để nghe sóng biển ru điệu mê hồn Bàn Than, để được kể về sự tích ông Đụn bà Che. Và để được ăn bát canh rau mứt cuối mùa mà người dân biển nơi đây hào phóng đón mời bên chén rượu còn xuân.
Rau mứt là một loại rong chọn cái thời điểm đầy bão tố, đầy sóng to gió lớn, đầy cái lạnh toát lên từ biển để mà bắt đầu cuộc sinh tồn, để mà dâng hiến cho người dân biển Tam Hải thêm một niềm vui, thêm một nốt sáng giữa cuộc sống còn nhiều cơ cực. Mùa rau mứt bắt đầu từ tháng 10 Âm lịch kéo dài cho đến hết tháng Giêng năm sau. Đôi lúc, tôi chợt nghĩ loài rong này sao giống với những con người Tam Hải, những con người Quảng Nam nói riêng và những con người miền Trung nói chung quá. Trong lúc tưởng chừng như khắc nghiệt nhất, lại xuất hiện và vươn lên, lại khẳng định một giá trị tuyệt vời mà qua bao nhiêu năm tháng vẫn còn đó.
Đầu tháng giêng, rau mứt đã không còn nhiều nữa, tôi về Tam Hải lại đang lúc giữa trưa, cuộc hành trình không cho tôi nhiều thời gian để có thể ở lại lâu hơn với vùng quê biển thơ mộng và đầy thú vị này. Tuy vậy, trong những khoảnh khắc ngắn ngủi ấy, tôi đã gặp trên bãi biển Tam Hải, trên những ghềnh đá Bàn Than một cụ bà đang hái rau mứt. Tấm lưng còng của cụ như còng hơn dưới cái nắng đã bắt đầu rát rạt của biển. Với cái rổ trên tay, cụ dò dẫm từng bước ra những ghềnh đá ven bờ còn những đám rau mứt vẫn kiên trì sót lại sau 1 mùa Đông và sau biết bao cuộc tìm kiếm, hái bắt của con người. Cụ bảo lúc nhiều thì thanh niên, đàn bà con gái đã thi nhau cào hết rồi, giờ cụ chỉ mót lại, để dành về nấu canh, nhiều thì bán kiếm thêm ít tiền. Rau mứt cuối mùa, cụ bà cũng đã tuổi già xế bóng. Tôi chợt thấy chạnh lòng khi hai hình ảnh ấy đã gặp nhau trên bãi Bàn Than trong cuộc hành trình mà tôi đi qua đây.
May mắn cho tôi là vào nhà người anh vợ của một người bạn thơ vong niên gần đó, được ăn một bát canh rau mứt với cá biển. Ông là Huỳnh Đức Vĩnh, một nghệ sỹ làng quê thứ thiệt rất nhiệt tình, cởi mở. Khi chúng tôi đến nhà, ông đang miệt mài bên trang giấy học sinh để soạn lại các tích Nghêu Sò Ốc Hến và tiểu phẩm cho ngày Lệ xóm 20 tháng Giêng sắp tới. Khi biết chúng tôi có ý định dạo chơi Bàn Than, ông liền vui vẻ nhận lời làm hướng dẫn viên một cách rất hồ hởi và thân tình. Nghe tôi hỏi về rau mứt ở vùng này, ông bảo: “Chú em không biết đó thôi. Canh rau mứt là một trong những đặc sản, cũng là niềm tự hào của dân biển Tam Hải bọn tui đó”. Rồi từ lúc đó, trong cuộc nói chuyện, xen lẫn những câu thơ, những bài hát, ông còn không ngớt lời thuyết minh về loại rau đặc biệt này ở Tam Hải. Nghe ông kể thì loại rau này nấu với cái chi cũng ngon hết, từ thịt gà, đến thịt bò, đến cá biển, các loại xương. Và mỗi khi tháng 10 Âm lịch bắt đầu về, người dân lại háo hức để đi cào rau mứt. Lăn lộn trên các ghềnh đá, giữa gió và sóng lớn, cuộc mưu sinh đầy niềm vui nhưng cũng rất mạo hiểm của dân biển Tam Hải với rau mứt lại bắt đầu.
Rau mứt hái về, phơi vài nắng trên vỉ cho khô rồi xếp làm 3 lại, đem cất. Loại rau này hiện nay trên thị trường rất được giá, nếu bán ký thì khoảng từ 600000 đến 700000/ ký. Bán theo 1 chục 12 bó thì khoảng 150000 đến 200000/1 chục. Trong những ngày biển động, tàu không thể ra khơi, việc biển không thuận lợi, rau mứt mọc lên, đem lại niềm hy vọng mới cho những người dân Tam Hải nơi đây. Nói đến đây, ông Vĩnh dừng lại, vừa cười vừa nói: “Trời có sinh thì có dưỡng phải không chú em ?”. Tôi mỉm cười. Mà thật, tự nhiên rất công bằng và ưu ái nếu con người biết sống vừa phải, không tham lam, không vô tình với chính môi trường mình đang sống. Cho dù miền núi, đồng bằng hay hải đảo, mỗi mùa tự nhiên đều đã có những thức nuôi sống con người đó thôi. Cơn thịnh nộ chỉ đến khi con người cứ tàn phá hết tự nhiên để mưu cầu những cuồng vọng của chính mình.
Cuộc vui càng vui hơn khi ông Vĩnh bưng lên mời chúng tôi mấy bát canh rau mứt nấu với một loài cá biển nào đó mà tôi không rõ tên. Công nhận người dân nơi đây gọi canh rau mứt là đặc sản không phải là hữu danh vô thực. Chỉ cần ngậm một muỗng canh vào miệng đã có cảm giác rất khác so với các loại canh khác. Canh rau mứt vừa dai, vừa giòn, càng nhai càng thấy dư vị thấm sâu vào. Cái hay là ở đó. Các loại canh khác nhai hay không nhai, độ thấm, độ cảm nhận cũng không khác mấy. Nhiều loại canh không cần nhai. Nhưng canh rau mứt buộc người ăn phải nhai, càng nhai từ từ lại càng cảm thấy thú vị, càng thấm cái vị của biển, của lòng người hơn. Nhấm nháp nó với ly rượu ngâm với bào ngư và cá ngựa do chính những người dân đi biển đem về, lại càng thấy thêm mến, thêm thương vùng quê này, càng thấy rau mứt gần gũi biết bao.
Nghe đâu loại rau mứt này nhiều năm nay đã vượt trùng dương qua tới tận nửa vòng trái đất bên kia. Những người con Núi Thành (Quảng Nam) và cả những người con đất miền Trung khác vì những lý do khác nhau phải lìa xa quê cha đất tổ nhưng vẫn mang trong tâm khảm hình ảnh cây rau mứt, mang theo hương vị dân dã mà đậm đà của bát canh rau mứt. Rồi trong những lần may mắn được trở về thăm lại nơi chôn nhau cắt rốn, hành trang mang theo của họ lúc nào cũng có rau mứt khô. Sang lại bên nơi mình mưu sinh, họ đem rau mứt mà cũng là đem một nét văn hoá ẩm thực tiêu biểu của miền Trung Việt Nam giới thiệu với bạn bè quốc tế. Thành ra, Việt kiều và cả khách nước ngoài nhiều lúc cứ hỏi về rau mứt với một niềm mến yêu thật sự. Điều ấy vui biết bao!
(Nguyễn Thành Giang)